Nhiếp ảnh gia William E. Crawford được biết đến như là một trong những nhiếp ảnh gia phương Tây đầu tiên đến miền Bắc Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc (1975), dùng nhiếp ảnh chủ yếu để ghi nhận lại sự thay đổi, phát triển của con người nơi vùng đất ngàn năm văn hiến này thời kì hậu chiến tranh. Crawford đến Hà Nội cùng bốn cựu binh Mỹ vào năm 1985 và chụp ảnh từ đó cho đến năm 2015, tập trung vào những khung cảnh sinh hoạt đời thường, kết hợp với việc tìm tòi và khai thác những cảnh quan mang bản sắc văn hoá đặc trưng, phần nào thể hiện cuộc sống và phong cách sống của cư dân bản địa thời điểm bấy giờ.
William E. Crawford tốt nghiệp cử nhân Đại học Yale (Mỹ). Năm 1995, ông từng tham gia triển lãm “Ảnh chụp Hà Nội của một người Mỹ” do Bảo tàng Hà Nội tổ chức. Năm 2010, các tác phẩm của Crawford góp mặt trong triển lãm “1000 năm Hà Nội”.
Mời anh em xem loạt ảnh được trích ra từ bộ ảnh của ông :
Tâm trạng chán nản, thất vọng, lo âu là điểm chung không thể giấu diếm hiện rõ trên nét mặt những nhân vật quyền lực của chính quyền Mỹ thời bấy giờ, đã được ghi lại qua những bức ảnh tư liệu quý giá vào đúng lúc kết thúc cuộc chiến tranh dai dẳng, đẫm máu ở Việt Nam.
Nhân dịp 41 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2016)
Lời tự sự của tác giả chùm ảnh, nhiếp ảnh gia David Hume Kennerly:
Tôi đã may mắn có vị trí tác nghiệp đắt giá trong thời gian kết thúc của cuộc Chiến tranh ở Việt Nam, cuộc chiến tranh mà tôi đã dành hơn 2 năm cuộc đời lăn lộn trên các chiến trường ở mảnh đất này.
Câu chuyện Việt Nam của tôi bắt đầu vào đầu năm 1971, khi Hãng tin thông tấn quốc tế (UPI) giao cho tôi tiếp quản văn phòng ở Sài Gòn để thay thế cho nhiếp ảnh gia Kent Potter. Khi đó, Kent Potter dự kiến là sẽ quay trở về nhà nhưng ông ấy không bao giờ có cơ hội đó nữa. Ngày 10/2/1971, Potter và 3 nhiếp ảnh gia khác đã thiệt mạng khi chiếc trực thăng chở họ bị bắn rơi ở Lào trong chiến dịch Lam Sơn 719 của quân đội Sài Gòn. Cùng trên chuyến bay này còn có phóng viên Larry Burrows của tờ Life, Henri Huet của AP, và Keisaburo Shimamoto của Newsweek, tất cả họ đều tử vong.
Tôi không quen biết ai trong số những nhiếp ảnh gia này, nhưng Burrows là thần tượng của cá nhân tôi, những bức ảnh của ông là nguồn cảm hứng cho mong muốn của tôi tham gia vào cuộc chiến với tư cách phóng viên ảnh.
Một vài tuần sau đó, tôi đã nằm trong một kế hoạch ràng buộc chặt với thành phố Sài Gòn. Tôi đã dành hơn hai năm chụp ảnh chiến tranh ở Đông Dương, năm 1972 tôi nhận được giải Pulitzer cho những bức ảnh của tôi tại Việt Nam, Campuchia và Ấn Độ, nơi tôi chụp về những người tị nạn chạy trốn qua biên giới từ Đông Pakistan. Việt Nam đã trở thành một phần của trong máu thịt của tôi; tất cả mọi điều xảy ra với tôi kể từ đó đã trở thành kinh nghiệm sống và làm việc. Tôi mới 24 tuổi, và năm đầu tiên của tôi là một nhiếp ảnh gia trong một chiến trường ác liệt. Có nhiều sự cố vô cùng nguy hiểm đã xảy ra và tôi đã từng nghĩ rằng, tôi sẽ không thể đón sinh nhật tuổi 25. Vì thế, khi tôi tổ chức sinh nhật ở Sài Gòn, tôi cảm thấy mỗi người quanh tôi là một phần thưởng thật sự. Cho đến nay, vận may sống sót đó đã bổ sung thêm vào cuộc đời tôi 43 năm nữa! Tôi đã cố gắng sử dụng những năm tháng đó thật tốt.
Tôi trở về Mỹ vào giữa năm 1973, làm việc cho tạp chí Time. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của tôi là vụ scandal Watergate, tôi cũng đã được phân công để chụp ảnh nhà lãnh đạo nhóm thiểu số Gerald R. Ford khi Phó Tổng thống Spiro Agnew từ chức vào mùa thu năm đó.
Một bức chân dung mà tôi đã chụp Ford được in trên trang bìa của tạp chí Time khi Nixon tuyên bố rằng ông sẽ thay thế Agnew làm phó tổng thống mới. Tiếp sau đó tôi đã dành hoàn toàn thời gian cho Ford.
Khi Tổng thống Mỹ Nixon từ chức, Ford lên thay thế. Ông ấy đã chỉ định tôi là nhiếp ảnh gia chính của ông. Với công việc này tôi có quyền thâm nhập mọi nơi, không chỉ theo sát hoạt động của Tổng thống và gia đình, mà tất cả những gì diễn ra đằng sau hậu trường. Đây là một vinh dự, và một công việc cực kỳ thú vị, đồng thời, đây cũng là thời gian hoạt chuyên nghiệp nhất và bổ ích cá nhân trong cuộc đời tôi. Ngày 3/3/1975, 6 tháng sau khi tổng thống Ford nhậm chức, tình hình miền Nam Việt Nam bắt đầu căng thẳng hơn khi quân đội Việt Nam tấn công thành phố Ban Mê Thuột tỉnh Tây Nguyên.
Sau vài ngày chiến đấu ác liệt, quân đội Mỹ tại Sài Gòn đã phải chịu hàng ngàn thương vong, quân đội Việt Nam tiến vào thành phố trọng điểm. Đây là khởi đầu của sự kết thúc chính quyền Nam Việt Nam. Khi đó, tôi đã có mặt bên trong Nhà Trắng được trao một cơ hội tuyệt vời để quan sát cuộc chiến tranh từ bên trong sảnh đường quyền lực. Vị thế đặc biệt này cho tôi một chuyến đi bí mật trở lại Việt Nam theo một nhiệm vụ đặc biệt mà Tổng thống Ford giao và sau đó trở lại Nhà Trắng cho đêm chung kết của bộ phim truyền hình dài tập đẫm máu Việt Nam. Những ngày cuối cùng của tháng 4/1975 là những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh địa ngục ở Việt Nam. Tôi hầu như không ngủ, và cố gắng chụp ảnh mỗi phút có thể trong những ngày cuối cùng căng thẳng.
Đây là những bức ảnh quý giá những ngày sụp đổ của chính quyền Sài Gòn:
Ông Trần Văn Châu, nhà nhiếp ảnh Việt Nam đầu tiên chụp ảnh Đà Lạt xưa từ máy bay. Ảnh Hà Hữu Nết
Năm 1984, tình cờ nhìn thấy tấm ảnh “Đà Lạt 1960” chụp từ trên cao, tôi vô cùng thán phục tài nghệ người chụp ảnh.
Đó là ảnh đen trắng, chụp Trường Lycée Yersin (nay là Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt), xa xa là hồ Xuân Hương và đồi Cù thơ mộng, với những đường cong tuyệt mỹ.
Ảnh không đề tên tác giả, nhiều năm tôi dò hỏi nhiều người nhưng không ai biết. Dịp kỷ niệm 100 năm Đà Lạt (1893-1993) gặp nhiếp ảnh gia Đặng Văn Thông (làm nghề ảnh từ năm 1950) mới biết tác giả tấm ảnh ấy là ông Trần Văn Châu.
Tôi rất muốn gặp ông Châu để học hỏi “bí quyết” nghề nghiệp, nhưng ông đã ra nước ngoài cùng gia đình năm 1990.
Đà Lạt nhìn từ trên máy bay vào những năm 60, thế kỷ trước. Ảnh Trần Văn Châu
Thật đáng tiếc! Tôi nghĩ rằng chẳng bao giờ được gặp ông nữa. Nhưng thật bất ngờ, tôi gặp nhà báo Nguyễn Hạnh (Tạp chí Xưa & Nay) lên Đà Lạt chuẩn bị triển lãm ảnh “Đà Lạt xưa” nhân kỷ niệm 115 năm Đà Lạt.
Trong bộ ảnh “Đà Lạt xưa” chủ yếu chụp từ năm 1960 về trước, có tới hơn 70% là ảnh của ông Trần Văn Châu. Tôi hỏi “đã xin phép tác giả chưa?”, anh bảo “rồi”, tôi tò mò hỏi “bằng cách nào?”, anh nói “đi với mình sẽ biết”.
Tối hôm ấy, bác Lê Phỉ (sinh năm 1927, là Nhà Đà Lạt học) đưa chúng tôi đến ngôi nhà nhỏ nằm ở lưng đồi đường Đào Duy Từ.
Khi bác Lê Phỉ chỉ vào ông già tóc bạc, nói “đây là ông Trần Văn Châu – người Việt Nam đầu tiên chụp ảnh Đà Lạt xưa từ máy bay”, tôi vô cùng sửng sốt và vui mừng.
Cùng là “dân” nhiếp ảnh, nên ngay từ phút ấy chúng tôi chuyện trò như đã thân quen từ lâu. Bằng chất giọng “Bắc” trầm ấm, ông Châu tâm sự, năm 1935 lúc 12 tuổi đã cầm máy ảnh (chụp bằng kính) cho Hương Ký photo ở Hà Nội.
Nhờ năng khiếu và siêng học, nên từ thời học sinh, ông đã làm ra tiền nhờ chụp ảnh.
Năm 1942, ông vào Đà Lạt lập nghiệp, ban đầu trồng hoa, thiết kế sân vườn tiểu cảnh làm đẹp thành phố.
Khi rảnh rỗi ông “mê” ảnh quên cả ăn và chụp rất nhiều về Đà Lạt. Ông thường chụp sương mù, bình minh, hoàng hôn, mây mưa, kiến trúc, thắng cảnh, rau hoa và con người Đà Lạt.
Ông bảo, mỗi thời khắc (sớm, trưa, chiều, tối) Đà Lạt có vẻ đẹp riêng và độc đáo. Chụp núi nên có mây vờn, chụp mây nên có rừng thông, xa xa là núi ảnh mới “bắt” mắt.
Không nơi nào đẹp như thành phố này. Ngày xưa, Đà Lạt hoang sơ, rất lạnh, ít nhà, thưa dân và thơ mộng lắm. Đà Lạt được ví như “Người đẹp Paris”.
Một lần, đang lom khom chụp ảnh hồ Xuân Hương, ông giật mình nghe tiếng quát “Ê mày! Mai mốt nhớ tặng ảnh tớ, nếu không thì vào “tù” đấy!”. Té ra là một ông “Tây” cao to, mắt xanh da trắng, ngoại hình rất nghệ sĩ.
Ông “Tây” ấy là Phó Thị trưởng Đà Lạt, sau này “mê” ảnh ông như “điếu đổ”.
Khi đã thân tình, ông Tây mắng “Cậu ngốc lắm! Ảnh đẹp thế sao không làm Postcard (bưu ảnh) bán cho du khách?”.
Ông liền làm thử gửi các quầy sách, cửa hiệu mỹ phẩm và đã thành công bất ngờ. Du khách thập phương và công chúng Đà Lạt thường chọn mua “Bưu ảnh Trần Văn Châu” làm lưu niệm và gởi tặng bạn bè.
Để có ảnh lạ và độc đáo, ông leo lên các tháp chuông, nhà cao tầng, ngọn cây… để chụp toàn cảnh Đà Lạt, nhưng chỉ được một góc mà thôi.
Ông mơ một ngày nào đó được lên máy bay chụp ảnh cho thoả chí tang bồng. Và dịp may ấy đã đến.
Năm 1960, ông làm quen, tặng ảnh tốp phi công trực thăng (đậu ở đồi Cù) mến ông và đã đồng ý.
Vào một ngày trời đẹp, ông chuẩn bị hai máy ảnh, năm cuộn phim lên máy bay chụp ảnh, cảm giác vừa thích thú, vừa lo sợ.
Ông phải hét, phải ra hiệu cho phi công quần đảo nhiều vòng trên bầu trời Đà Lạt.
Lúc lên cao, khi sà thấp, lúc từ đông sang tây, từ nam lên bắc… ông chụp say mê hết phim lúc nào chẳng hay.
Khi tráng phim – rọi ảnh, người ông nổi “da gà” vì ảnh quá lạ và đẹp đến không ngờ. Những tấm ảnh Đà Lạt chụp từ máy bay, ông “trình làng” rất dè dặt, nhưng đã làm ngất ngây biết bao người.
Ông tâm sự: “Tôi rất mãn nguyện, bởi mọi nơi chốn Đà Lạt đã được tôi thu vào ống kính qua bao thăng trầm thời gian. Hơn 70 năm cầm máy, nhiều lần chạy loạn, nhiều thứ phải vứt bỏ, nhưng có một thứ tôi luôn đeo bên người đó là bao phim. Tôi coi phim, ảnh là tài sản vô giá, là đứa “con” tinh thần đặc biệt yêu qúy. Đến nay phim vẫn còn tốt, tôi đã “ken” vào máy tính và USB để lưu giữ lâu dài. Lần này, về dự triển lãm ảnh “Đà Lạt xưa”, thăm người thân, bạn bè… tôi hạnh phúc vô cùng!”.
Ngày hôm sau, tôi cùng ông đi chụp “chuyên đề” về kiến trúc cổ Đà Lạt. Ông tâm sự, Đà Lạt phát triển nhanh quá, đẹp và khang trang lên nhiều, nhưng cũng “bê tông hóa” nhiều hơn.
Ông bảo, đã giao cho anh Trần Văn Hiệp (con trai đầu) lưu giữ toàn bộ kho phim và ảnh, để sau này in sách ảnh “Đà Lạt xưa” tặng “Thành phố Hoa – Đà Lạt”.
Dịp tết vừa rồi, tình cờ tôi gặp người thân của ông mới hay tin, ông đã qua đời ở nước ngoài do bạo bệnh. Tôi thật sự bàng hoàng nuối tiếc, như vừa mất đi một người ruột thịt.
Nhiếp ảnh gia Trần Văn Châu (quê Nam Định) là người Việt Nam đầu tiên và cũng là người cuối cùng chụp ảnh “Đà Lạt xưa” từ máy bay.
Tôi rất kính trọng, quý mến tài năng và tấm lòng của ông. Bài viết này, như nén hương thơm tưởng nhớ đến ông nơi xa ngái.
Tuy ông đã đi xa, nhưng bộ ảnh ông để lại, là nguồn tư liệu quý, là nhân chứng lịch sử lưu giữ hình hài “Đà Lạt xưa” cho hậu thế.
Nhớ lại, lần gặp ông duy nhất ấy, tôi đã học được ở ông nhiều điều, chụp tặng ông mươi kiểu ảnh, lúc uống cà phê ông bảo: “Mong mọi người xây dựng Đà Lạt ngày càng đẹp hơn, xứng tầm là thành phố du lịch nổi tiếng thế giới!”.
Thực hiện trong năm 1991, một chuyến đi xuyên Việt do nhiếp ảnh gia Đức Hans-Peter Grumpe thực hiện ở 20 tỉnh thành thuộc cả 3 miền Việt Nam từ năm 1991 – 1993, được đăng tải trên trang web Hpgrumpe.de.
Nguồn gốc của chùa Chùa Tây Phương đã có từ nhiều thế kỷ thứ 3 và thứ 8. Các cấu trúc hiện nay được xây dựng vào thế kỷ 16-17. Nó nằm trên một ngọn đồi khoảng 35 km về phía tây nam Hà Nội. Nó nổi tiếng với nó bảy mươi sáu khắc từ gỗ của các số liệu gỗ cây mít, chủ yếu là từ thế kỷ 18 ..… ảnh do nhiếp ảnh gia Đức Hans-Peter Grumpe thực hiện ở 20 tỉnh thành thuộc cả 3 miền Việt Nam từ năm 1991 – 1993, được đăng tải trên trang web Hpgrumpe.de.
Vườn quốc gia Cúc Phương nằm ở khoảng 100km về phía nam của Hà Nội trong tỉnh Việt của Ninh Bình.
Công viên 20.000 ha đã được khai trương vào năm 1962 như là công viên quốc gia đầu tiên ở Việt Nam. Địa hình chủ yếu là bởi những vách đá vôi, cao nhất các ông May Bắc (“Silver Cloud”) với chiều cao 656 m trên mực nước biển. NN được thiết kế và phù sa của sông Hồng (Sông Hồng). Rừng mưa nhiệt đới là hình thức thống trị của thực vật.
Vườn quốc gia Cúc Phương có một sự đa dạng lớn các loài. Ở đây có khoảng 2.000 loài thực vật và 450 loài lớn hơn khoảng 38 phần trăm của các loài động vật quốc gia được đại diện. Bên cạnh đó là một thế giới côn trùng đa dạng với khoảng 1.800 loài, trong đó hàng triệu con bướm là đặc biệt rõ ràng trong mùa xuân.
Phá rừng trái phép và săn bắt là một trong những vấn đề lớn nhất của chính quyền công viên mà cố gắng những bất bình để chống lại với các chương trình mục tiêu.
nguồn: http://de.wikipedia.org/wiki/Cuc-Phuong-Nationalpark
36phophuong.vn
Đáng tiếc là tôi thực hiện trong năm 1991, một chuyến đi ngắn đến công viên, vì vậy tôi đã không chụp được nhiều động vật hoang dã.… ảnh do nhiếp ảnh gia Đức Hans-Peter Grumpe thực hiện ở 20 tỉnh thành thuộc cả 3 miền Việt Nam từ năm 1991 – 1993, được đăng tải trên trang web Hpgrumpe.de.
Từ Hà Nội đi du lịch trong khu vực phía Bắc là 1991-1992 vẫn đầy biến chứng. Họ cần giấy phép bổ sung. Năm 1992 tôi là một trong những khách du lịch đầu tiên (vì vậy tôi đã nói với ít nhất) cho phép lái xe thông qua Sơn La, Điện Biên Phủ, Lai Châu đến Sa Pa. Chuyến đi này là do điều kiện đường xấu chỉ với một (Nga) Jeep thể các du lịch Việt Nam với người lái xe thuê của cảnh sát.
Điểm dừng đầu tiên là Hòa Bình. Năm 1991 tôi đã tham dự các hồ chứa cho nhà máy điện (1920 MW), được xây dựng vào năm 1988 với sự hỗ trợ từ Liên Xô. Nó đã được nghiêm cấm chụp ảnh các bức tường đập và xung quanh, nhưng hướng dẫn của tôi nói với mọi người rằng tôi là kỹ sư người Nga, và vì vậy tôi có thể chụp ảnh. Đó là thú vị, bởi vì bạn cho đi số lượng chỉ lớn nước và tích tụ dưới tường một lượng lớn gỗ lũa đã được đưa ra bởi người dân địa phương với sự nhiệt tình cao nhất.… ảnh do nhiếp ảnh gia Đức Hans-Peter Grumpe thực hiện ở 20 tỉnh thành thuộc cả 3 miền Việt Nam từ năm 1991 – 1993, được đăng tải trên trang web Hpgrumpe.de.
Đông Hồ là một làng nhỏ khoảng 30 km về phía đông của Hà Nội. Ở đây đã được bảo tồn qua nhiều thế kỷ và nhiều thế hệ khắc gỗ nghệ thuật. Năm 1992 đã có, tuy nhiên, chỉ có hai gia đình thống trị nghệ thuật này, và Đông Hồ là làng duy nhất mà hình ảnh Tết chưa được in ra. Trước đó đã đi đến này hình ảnh năm mới cho bạn bè và gia đình để chúc họ may mắn. Chúng tôi đến thăm Thầy Nguyễn Đăng Chế, người đã chứng minh cho chúng tôi quá trình in ấn và trong đó tôi đã có thể mua một cổ phiếu in và một số thư mục với Print.
Tất cả các hình ảnh được in bằng tay, thường là trong 4 màu sắc. Do đó, có ít nhất 4 bản gỗ cho mỗi hình ảnh. Tất cả các nguyên liệu là sản phẩm tự nhiên, màu sắc của thực vật và khoáng sản, giấy bao gồm vỏ cây của một cây (hoặc Dzo Đỗ). Các nền đầu tiên được nhuộm trước khi in. Đại diện thường là ‘năm Animals 12 dương lịch: chuột, trâu, hổ, mèo, rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó, lợn. Ngoài ra còn có những biểu tượng may mắn, những cảnh đời sống hàng ngày, mà còn là một loại bức tranh biếm họa.… ảnh do nhiếp ảnh gia Đức Hans-Peter Grumpe thực hiện ở 20 tỉnh thành thuộc cả 3 miền Việt Nam từ năm 1991 – 1993, được đăng tải trên trang web Hpgrumpe.de.