https://www.facebook.com/phohangcan/
Nhiếp ảnh gia William E. Crawford được biết đến như là một trong những nhiếp ảnh gia phương Tây đầu tiên đến miền Bắc Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc (1975), dùng nhiếp ảnh chủ yếu để ghi nhận lại sự thay đổi, phát triển của con người nơi vùng đất ngàn năm văn hiến này thời kì hậu chiến tranh. Crawford đến Hà Nội cùng bốn cựu binh Mỹ vào năm 1985 và chụp ảnh từ đó cho đến năm 2015, tập trung vào những khung cảnh sinh hoạt đời thường, kết hợp với việc tìm tòi và khai thác những cảnh quan mang bản sắc văn hoá đặc trưng, phần nào thể hiện cuộc sống và phong cách sống của cư dân bản địa thời điểm bấy giờ.
William E. Crawford tốt nghiệp cử nhân Đại học Yale (Mỹ). Năm 1995, ông từng tham gia triển lãm “Ảnh chụp Hà Nội của một người Mỹ” do Bảo tàng Hà Nội tổ chức. Năm 2010, các tác phẩm của Crawford góp mặt trong triển lãm “1000 năm Hà Nội”.
Mời anh em xem loạt ảnh được trích ra từ bộ ảnh của ông :
Xin lỗi, nên tránh xa đừng để hình ảnh như vậy bị bắt gặp
Nhẹ nhàng, thanh nhã và gợi cảm là một trong số những thiết kế khêu gợi nhất vì nó có …. Chất vải mỏng nhẹ như làn da … Các chị em nên tìm hiểu và đưa ra cho mình cách chọn lựa hợp lý trong quá trình gây cảm xúc trong phòng the …
……
Toàn cảnh Lăng Bác, Phủ Chủ tịch, ao cá Bác Hồ, Bảo tàng Hồ Chí Minh. Hình ảnh chưa từng thấy về Lăng, ao cá Bác Hồ, Phủ Chủ tịch.
Những hình ảnh về quần thể Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh khi được quan sát từ vũ trụ, bên cạnh những hình ảnh tư liệu hiếm chắc chắn sẽ khiến nhiều người phải trầm trồ
Toàn cảnh ngày nay
Phủ chủ tịch
Nhà sàn
Lăng Bác Hồ
Quá trình xây dựng lăng Bác
Ngày nay
Bảo tàng Hồ Chí Minh
Bản đồ hướng dẫn thăm quan
Tâm trạng chán nản, thất vọng, lo âu là điểm chung không thể giấu diếm hiện rõ trên nét mặt những nhân vật quyền lực của chính quyền Mỹ thời bấy giờ, đã được ghi lại qua những bức ảnh tư liệu quý giá vào đúng lúc kết thúc cuộc chiến tranh dai dẳng, đẫm máu ở Việt Nam.
Nhân dịp 41 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2016)
Lời tự sự của tác giả chùm ảnh, nhiếp ảnh gia David Hume Kennerly:
Tôi đã may mắn có vị trí tác nghiệp đắt giá trong thời gian kết thúc của cuộc Chiến tranh ở Việt Nam, cuộc chiến tranh mà tôi đã dành hơn 2 năm cuộc đời lăn lộn trên các chiến trường ở mảnh đất này.
Câu chuyện Việt Nam của tôi bắt đầu vào đầu năm 1971, khi Hãng tin thông tấn quốc tế (UPI) giao cho tôi tiếp quản văn phòng ở Sài Gòn để thay thế cho nhiếp ảnh gia Kent Potter. Khi đó, Kent Potter dự kiến là sẽ quay trở về nhà nhưng ông ấy không bao giờ có cơ hội đó nữa. Ngày 10/2/1971, Potter và 3 nhiếp ảnh gia khác đã thiệt mạng khi chiếc trực thăng chở họ bị bắn rơi ở Lào trong chiến dịch Lam Sơn 719 của quân đội Sài Gòn. Cùng trên chuyến bay này còn có phóng viên Larry Burrows của tờ Life, Henri Huet của AP, và Keisaburo Shimamoto của Newsweek, tất cả họ đều tử vong.
Tôi không quen biết ai trong số những nhiếp ảnh gia này, nhưng Burrows là thần tượng của cá nhân tôi, những bức ảnh của ông là nguồn cảm hứng cho mong muốn của tôi tham gia vào cuộc chiến với tư cách phóng viên ảnh.
Một vài tuần sau đó, tôi đã nằm trong một kế hoạch ràng buộc chặt với thành phố Sài Gòn. Tôi đã dành hơn hai năm chụp ảnh chiến tranh ở Đông Dương, năm 1972 tôi nhận được giải Pulitzer cho những bức ảnh của tôi tại Việt Nam, Campuchia và Ấn Độ, nơi tôi chụp về những người tị nạn chạy trốn qua biên giới từ Đông Pakistan. Việt Nam đã trở thành một phần của trong máu thịt của tôi; tất cả mọi điều xảy ra với tôi kể từ đó đã trở thành kinh nghiệm sống và làm việc. Tôi mới 24 tuổi, và năm đầu tiên của tôi là một nhiếp ảnh gia trong một chiến trường ác liệt. Có nhiều sự cố vô cùng nguy hiểm đã xảy ra và tôi đã từng nghĩ rằng, tôi sẽ không thể đón sinh nhật tuổi 25. Vì thế, khi tôi tổ chức sinh nhật ở Sài Gòn, tôi cảm thấy mỗi người quanh tôi là một phần thưởng thật sự. Cho đến nay, vận may sống sót đó đã bổ sung thêm vào cuộc đời tôi 43 năm nữa! Tôi đã cố gắng sử dụng những năm tháng đó thật tốt.
Tôi trở về Mỹ vào giữa năm 1973, làm việc cho tạp chí Time. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của tôi là vụ scandal Watergate, tôi cũng đã được phân công để chụp ảnh nhà lãnh đạo nhóm thiểu số Gerald R. Ford khi Phó Tổng thống Spiro Agnew từ chức vào mùa thu năm đó.
Một bức chân dung mà tôi đã chụp Ford được in trên trang bìa của tạp chí Time khi Nixon tuyên bố rằng ông sẽ thay thế Agnew làm phó tổng thống mới. Tiếp sau đó tôi đã dành hoàn toàn thời gian cho Ford.
Khi Tổng thống Mỹ Nixon từ chức, Ford lên thay thế. Ông ấy đã chỉ định tôi là nhiếp ảnh gia chính của ông. Với công việc này tôi có quyền thâm nhập mọi nơi, không chỉ theo sát hoạt động của Tổng thống và gia đình, mà tất cả những gì diễn ra đằng sau hậu trường. Đây là một vinh dự, và một công việc cực kỳ thú vị, đồng thời, đây cũng là thời gian hoạt chuyên nghiệp nhất và bổ ích cá nhân trong cuộc đời tôi. Ngày 3/3/1975, 6 tháng sau khi tổng thống Ford nhậm chức, tình hình miền Nam Việt Nam bắt đầu căng thẳng hơn khi quân đội Việt Nam tấn công thành phố Ban Mê Thuột tỉnh Tây Nguyên.
Sau vài ngày chiến đấu ác liệt, quân đội Mỹ tại Sài Gòn đã phải chịu hàng ngàn thương vong, quân đội Việt Nam tiến vào thành phố trọng điểm. Đây là khởi đầu của sự kết thúc chính quyền Nam Việt Nam. Khi đó, tôi đã có mặt bên trong Nhà Trắng được trao một cơ hội tuyệt vời để quan sát cuộc chiến tranh từ bên trong sảnh đường quyền lực. Vị thế đặc biệt này cho tôi một chuyến đi bí mật trở lại Việt Nam theo một nhiệm vụ đặc biệt mà Tổng thống Ford giao và sau đó trở lại Nhà Trắng cho đêm chung kết của bộ phim truyền hình dài tập đẫm máu Việt Nam. Những ngày cuối cùng của tháng 4/1975 là những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh địa ngục ở Việt Nam. Tôi hầu như không ngủ, và cố gắng chụp ảnh mỗi phút có thể trong những ngày cuối cùng căng thẳng.
Đây là những bức ảnh quý giá những ngày sụp đổ của chính quyền Sài Gòn:
Phố Nhà Thờ thời thuộc Pháp gọi là Avenue de la Cathédrale, Phố dài 110m, chạy từ phố Hàng Trống đến quảng trường Nhà Thờ Lớn Hà Nội, nơi giáp hai phố Nhà Chung và Lý Quốc Sư. Nhà thờ lớn Thánh Joseph được xây dựng vào năm 1886. Nhà thờ được thiết kế theo phong cách kiến trúc Gothic trung cổ châu Âu. Nhà thờ Lớn ngày nay không thay đổi so với trước nhiều. Nhà thờ hiện nay tọa lạc tại số 40 phố Nhà Chung, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, nằm trên một khu đất rộng, liền kề với tòa tổng Giám mục Hà Nội. Giờ đây khu vực Nhà thờ Lớn luôn là điểm thu hút đông người vào mỗi ngày hay các dịp lễ lớn.
60 năm giải phóng Thủ đô, chúng tôi đã cố gắng tìm lại những hình ảnh Hà Nội vào đúng năm 1954 và đi chụp lại chính những địa điểm đó, vào năm 2014, để thấy Hà Nội của ngày ấy – bây giờ.
Dù có đi bốn phương trời
Lòng vẫn nhớ về Hà Nội
Hà Nội của ta, thủ đô yêu dấu
Một thời đạn bom… Một thời hòa bình.
(Nhớ về Hà Nội)
Hà Nội! – Hai tiếng thiêng liêng ấy tự bao giờ đã chẳng còn là một địa danh cụ thể nữa. Trong lòng mỗi người yêu Hà Nội, đó đã trở thành một phần của cuộc đời, một mảnh của linh hồn, hòa quyện và gắn bó với nhau chẳng thể tách rời. Yêu Hà Nội, là yêu một sáng tinh khôi, thả hồn chìm trong mùi hoa sữa phảng phất đến nao lòng. Yêu những cơn gió thu vương vít vị rêu phong của phố phường, những “ngõ nhỏ, phố nhỏ, nhà tôi ở đó”. Yêu một món ăn, một thức quà, một nét thanh lịch Tràng An. Yêu những hoài niệm miên man khi ngồi ở góc nhỏ tĩnh lặng, nghĩ về một thời khói lửa hào hùng. Yêu cả nhịp sống sôi động của ngày hôm nay, khi dòng người hối hả hòa vào nhau trên đường phố, giữa khung cảnh tấp nập mà vẫn rất đỗi yên bình.
Hà Nội, không chỉ là trái tim hồng của cả nước, đó còn là hiện thân của quá khứ hào hùng, của hiện tại bình yên, của tương lai đầy hứa hẹn. 60 năm đã trôi qua, biết bao thăng trầm, biến đổi với thời gian, Hà Nội cũng đã vươn mình, bước trên con đường hội nhập, phát triển. 60 năm, Hà Nội khoác lên mình chiếc áo mới, nhưng thủ đô của chúng ta vẫn giữ được những nét thâm trầm, cổ kính vốn dĩ, với “phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu”, với tiếng chuông nhà thờ vang lên như từng nhịp tim của những người Hà Nội, với nét duyên dáng của tà áo dài thấp thoáng bên tháp rùa cổ kính của thiếu nữ Hà Thành, và đường Cổ Ngư vẫn rất đỗi dịu dàng, lãng mạn như thế… Hà Nội, khiến người ta chẳng thôi yêu, chẳng thôi nhớ. Để rồi dù có đi đến đâu, phương trời nào, vẫn mãi nhớ về một Hà Nội, một thời hào hùng, và bình yên như thế…
“Hà Nội ơi! Nhớ về mùa thu Tháng Mười,
Hà Nội ơi! Ta nhớ không quên
Hà Nội ơi! Trong trái tim ta…”
(Hà Nội đêm trở gió)
Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết vào ngày 21/7/1954 (theo giờ Việt Nam) nhằm khôi phục lại hòa bình ở Đông Dương, nêu rõ việc quân Pháp phải rút khỏi miền Bắc Việt Nam.
Sáng ngày 10/10/1954, Ủy ban Quân-Chính Hà Nội và Đại đoàn 308 từ các cửa ô mở cuộc hành quân lịch sử vào Thủ đô. Giương cao lá cờ “Quyết chiến quyết thắng”, Trung đoàn Thủ đô dẫn đầu đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng Hà Nội, trong tiếng nhạc hùng tráng, giữa rừng hoa, rừng cờ và tình cảm thắm thiết của 20 vạn nhân dân Hà Nội đổ xuống đường, đón mừng Ủy ban Quân-Chính và bộ đội.
Cờ đỏ sao vàng tung bay trên đỉnh cột cờ cổ kính như lời chào một trang sử mới cho đất nước Việt Nam.
Nguồn tham khảo: Tạp chí Life, Delcampe.fr, triển lãm “Hà Nội trong tôi”
Ảnh: Doãn Tuấn
Trong tín ngưỡng của người Việt và của một số dân tộc thiểu số khác ở trên lãnh thổ Việt Nam, việc tôn thờ nữ thần, thờ mẫu thần, thờ mẫu tam phủ tứ phủ là hiện tượng khá phổ biến và có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa. Tuy tất cả đều là sự tôn sùng thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ nữ thần, mẫu thần, mẫu tam phủ tứ phủ không hoàn toàn đồng nhất. …